Đối với tôi, có vẻ rằng một loại hoàn toàn khác hẳn của luân lý và cư xử, và một hành động bắt nguồn từ sự hiểu rõ toàn tiến hành của sống, đã trở thành một yêu cầu cấp bách, trong thế giới của những vấn đề và những khủng hoảng chồng chất của chúng ta. Chúng ta cố gắng giải quyết những vấn đề này qua những phương pháp thuộc tổ chức và thuộc chính trị, qua sự tái điều chỉnh thuộc kinh tế và vô vàn những đổi mới khác nhau. Tất cả những đổi mới, dù rộng lớn và có vẻ vĩnh viễn, trong chính chúng chỉ gây ra sự hỗn loạn thêm nữa và sự cần thiết phải đổi mới thêm nữa. Nếu không hiểu rõ toàn sự tồn tại phức tạp của con người, thuần túy đổi mới sẽ tạo ra sự đòi hỏi khó hiểu cho những đổi mới thêm nữa. Không có kết thúc cho sự đổi mới; và không có giải pháp cơ bản trong phương cách này.
Những cách mạng thuộc chính trị, kinh tế hay xã hội cũng không là giải pháp, bởi vì chúng sản sinh những Chính thể chuyên chế kinh hoàng, hay sự chuyển giao thuần túy của quyền hành và uy quyền vào những bàn tay của một nhóm người khác. Tại bất kỳ thời gian nào, những cách mạng như thế không là phương cách ra khỏi sự hỗn loạn và sự xung đột.
Nhưng có một cách mạng hoàn toàn khác hẳn và phải xảy ra nếu chúng ta khao khát thoát khỏi chuỗi vô tận của những lo âu, những xung đột và những thất vọng mà chúng ta bị trói buộc. Cách mạng này phải bắt đầu, không phải bằng lý thuyết và ý tưởng, mà đã chứng tỏ rằng vô ích, nhưng bằng một thay đổi cơ bản trong chính cái trí. Một thay đổi như thế có thể được tạo ra chỉ qua sự giáo dục đúng đắn và sự phát triển tổng thể của con người. Nó là một cách mạng mà phải xảy ra trong tổng thể cái trí và không chỉ trong sự suy nghĩ. Rốt cuộc, sự suy nghĩ chỉ là một kết quả và không là cái nguồn. Phải có một thay đổi cơ bản trong cái nguồn và không phải là sự sửa đổi của kết quả. Hiện nay, chúng ta đang cố gắng cải thiện những kết quả, những triệu chứng. Chúng ta không đang sáng tạo một thay đổi cốt lõi, lật tung những phương cách cũ kỹ của sự suy nghĩ, giải thoát cái trí khỏi những truyền thống và những thói quen. Chính là sự thay đổi cốt lõi này mà chúng ta phải quan tâm và chỉ có sự giáo dục đúng đắn mới thực hiện được điều đó.
Tìm hiểu và học hành là chức năng của cái trí. Qua học hành, tôi không có ý sự vun đắp thuần túy của ký ức hay sự tích lũy của hiểu biết, nhưng khả năng để suy nghĩ một cách rõ ràng và thông minh mà không có ảo tưởng, để bắt đầu từ những sự kiện và không phải từ những niềm tin và những lý tưởng. Không có học hành nếu sự suy nghĩ bắt nguồn từ những kết luận. Chỉ thâu lượm thông tin hay hiểu biết, không là học hành. Học hành hàm ý tình yêu của sự hiểu rõ và tình yêu của làm một việc vì chính nó. Học hành chỉ có thể xảy ra khi không có sự ép buộc thuộc bất kỳ loại nào. Và sự ép buộc mang nhiều hình thức, đúng chứ? Có ép buộc qua sự ảnh hưởng, qua sự quyến luyến hay sự đe dọa, qua sự khuyến khích thuyết phục hay những hình thức tinh tế của phần thưởng.
***
Jiddu Krishnamurti hay J. Krishnamurti, là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người, và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu.
Jiddu Krishnamurrti được sinh ra ở Ấn độ năm 1895 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Thần học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho “Thầy Thế Giới” mà sự xuất hiện của ông đã được công bố từ trước. Chẳng mấy chốc K đã nổi lên như một người thầy, không thể phân hạng, không thỏa hiệp và đầy quyền năng; những buổi nói chuyện và những tác phẩm của ông không liên quan đến bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào và cũng không thuộc phương Đông hay phương Tây nhưng dành cho toàn thế giới. Cương quyết phủ nhận hình ảnh đấng Cứu thế, vào năm 1929 ông tuyên bố giải tán tổ chức lớn và giàu có đã được xây dựng quanh ông và tuyên bố sự thật là “một mảnh đất không lối vào”, không thể tiếp cận được bởi bất kỳ tôn giáo, triết lý hay giáo phái chính thức nào.
Trong suốt cuộc đời còn lại K liên tục phủ nhận danh vị đạo sư mà những người khác cố gắng ép buộc ông phải nhận. Ông tiếp tục thu hút vô số người khắp thế giới nhưng khẳng định không là uy quyền, không muốn những môn đồ, và luôn luôn nói chuyện như một cá thể cùng một cá thể khác. Tâm điểm những lời giáo huấn của ông là nhận ra những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo liên tục được nhấn mạnh. Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng đạt, phải có được “không gian rộng lớn trong bộ não” mà trong đó có năng lượng vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Ông tiếp tục giảng thuyết khắp thế giới cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi chín mươi. Những buổi nói chuyện, những cuộc đối thoại, những lá thư và những bài viết trên báo của ông đã được tổng hợp thành hơn sáu mươi quyển. Từ những lời giáo huấn nhiều như thế một loạt những quyển sách có đề mục này đã được biên soạn, mỗi quyển sách tập trung vào một đề tài có liên quan đặc biệt và khẩn cấp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.